Xabi Alonso - người hùng thầm lặng

Tiền vệ ngôi sao của tuyển Tây Ban Nha và Real Madird Xabi Alonso tên thật là Xabier Alonso Olano là một đứa con của xứ Basque, Tây Ban Nha.

Tiền vệ tấn công: Biểu tượng của sự hoa mỹ

Bài viết thứ 2 trong loạt bài về vị trí và vai trò cầu thủ...

Bóng đá tổng lực

Một khái niệm về hệ thống chiến thuật nổi tiếng gắn với thương hiệu của "Những người Hà Lan bay...

Catenaccio

Hệ thống phòng ngự kinh điển từng đưa Inter Milan và tuyển Italia lên đỉnh cao thế giới

WM: Luật việt vị và cuộc cách mạng chiến thuật

Điều gì đã tạo nên tên tuổi của 1 HLV được xem là vĩ đại nhất lịch sử bóng đá Anh?

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Andrei Kanchelskis - học sĩ hào hoa

(Đường dẫn đến khung thành) - Andrei Kanchelskis là 1 tài năng của bóng đá Xô viết, 1 "Quỷ Đỏ" chưa được tuyên dương xứng đáng với những gì anh đóng góp cho Manchester United trên con đường xây dựng 1 đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử bóng đá tại xứ sở sương mù suốt 20 năm qua.


Là một trong những tài năng cuối cùng được phát hiện và phát triển dưới sự chăm bón của nền bóng đá Xô viết, Andrei Kanchelskis (Андрей Антанасович Канчельскис) đã nếm trải đủ những hương vị của vinh quang, cay đắng. Một sự lận đận như chính nền bóng đá nước này sau khi tan vỡ!

Andrei Kalcheskis là 1 trong những cầu thủ Đông Âu hay nhất chơi tại ManU, sinh ngày 23 tháng 1 năm 1969 tại thành phố Kirov Kirovohrad, Ucraina thuộc Liên Xô (cũ). Anh là người Ukraina gốc Lít va (Lithuania) nhưng sau khi Liên Xô tan rã thì anh mang quốc tịch và khoác áo đội tuyển Nga dù anh hoàn toàn có quyền đá cho 2 đội tuyển kia.


Trong sự nghiệp quốc tế, anh được gọi vào đội tuyển Liên Xô (cũ) từ năm 1989, đá 23 trận ghi được 3 bàn thắng và 52(3) trận cho đội tuyển Nga, ghi được 8 (4) bàn thắng. Anh là cầu thủ MU khoác áo nhiều độI tuyển quốc gia nhất: 3 đội gồm Liên Xô (Cũ), CIS (SNG - Cộng đồng các quốc gia độc lập) và sau này là LB Nga. Những cầu thủ đã từng khoác áo 3 quốc gia như Kanchelskis không nhiều, trước đó chỉ có “Mũi tên Vàng” Alfredo Di Stefano, đã chơi cho cả Argentina, Colombia, và Tây Ban Nha. 

Anh trưởng thành từ lò huấn luyện CLB Kharkov. Anh ký hợp đồng nhà nghề chính thức với Dynamo Kiev 1 trong số những CLB thành công nhất lịch sử bóng đá Liên Xô năm mới 17 tuổi, thi dấu từ 1987-1989 , chơi trận đầu tiên trên sân vận động Cộng hòa (bây giờ đổi tên thành Lobanovsky - 1 HLV Huyền thoại của bóng đá Xô viết và Ucraina) khi mới 19 tuổi ngày 17 tháng 9 năm 1988. Tại Dynamo Kiev, hầu hết thời gian của anh là trên ghế dự bị nhưng cũng đá 22 trận và ghi được 1 bàn thắng.

Từ mùa 1989 - 1990, do xung khắc với HLV Lobanovski và nhận được lời đề nghị của Shakhtar Donetsk, Andrei đã ra đi với sự nuối tiếc dù Dynamo luôn là đội bóng anh yêu thích từ thời thơ ấu. Trong đội hình Shakhtar, anh đã thi đấu tốt, đá 21 trận và ghi 3 bàn và được gọi vào đội tuyển QG Liên Xô. Anh ra quân trận đầu tiên dưới màu áo ĐTQG vào tháng Tám năm 1989 trong trận Liên Xô gặp Ba Lan.

Khi Liên Xô bắt đầu cho cầu thủ được đi đá thuê tại các CLB nước ngoài, 1 loạt danh thủ Liên Xô (cũ) đã xuất ngoại thử sức tại các nền bóng đá khác như Oleg Blokhin , Shalimov , Mikhailychenko , Rinat Dasaev, Igor Belanov, Sergei Yevgenyevich Aleinikov. Kanchelskis cũng không đứng ngoài trào lưu đó.

Số phận đã đưa Kanchelskis đến ManU khi một cuốn băng Video giới thiệu về anh được gửi đến Old Trafford. Sir Ferguson đã rất ấn tượng bởi phong cách và tài năng trời phú của Kan và sau khi xem trận đấu Liên Xô - Đức, ông đã nhanh chóng trả 650.000 bảng - mức giá kỷ lục của một cầu thủ Liên Xô lúc bấy giờ - để mua Kanchelskis về Manchester United, đưa sự nghiệp của tiền vệ này lên một tầm cao mới. Ngày 11/5/1991, anh thi đấu trận đầu tiên cho MU trong trận gặp Crystal Palace ở giải Ngoại hạng - trận đấu cuối cùng mùa giải của MU, đáng tiếc là họ đã để thua với tỷ số 0-3 trên sân Selhurst Park và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 6. Ngày 15/5/1991, ManU đạt danh hiệu đầu tiên sau 24 năm - Cúp C2 - nhưng Kanchelskis không có mặt trong đội hình. SAF coi anh như 1 vụ đầu tư trong việc tìm 1 Tiền vệ cánh phải trẻ hơn, khỏe hơn thay cho những cầu thủ lớn tuổi như Mike Phelan và Bryan Robson.

Mùa 1991/92, Kanchelskis chơi khá hay, nhanh chóng trở thành 1 thành viên chính khi thi đấu 34 trận, ghi 5 bàn thắng góp phần giúp MU đoạt League Cup và xếp thứ 2 sau Leed trong cuộc đua đến ngôi vô địch Football League First Division mùa cuối cùng trước khi giải đấu này chuyển thành Premier League như bây giờ. Trong mùa này, MU đã dẫn đầu bảng trong suốt mùa cho tới vài vòng cuối mới bị Leed United của Eric Cantona qua mặt. Tổng cộng mùa này Kanchelskis ghi 8 bàn trên mọi mặt trận.

Mùa 1992/1993, khi gải đấu cao nhất nước Anh đổi tên thành Premier League, Kanchelskis được bố trí đá chính tại cánh phải và cùng với đồng đội anh đá 31 trận và ghi 6 bàn, giải cơn khát danh hiệu VĐQG kéo dài 26 năm của ManU. Mùa đó, anh là 1 trong số 13 cầu thủ ngoài Anh và Ireland được ra sân trong vòng đấu đầu tiên.

Mùa 1993/1994, anh trở thành lựa chọn mặc định cho hành lang cánh phải ngay cả khi Bryan Robson - tiền vệ đội trưởng chuyên cánh phải kỳ cựu của ManU trải qua mùa cuối cùng khoác trên mình chiếc áo đỏ. Trước anh, chỉ có Steve Coppell là có được sự ưu ái này trong những năm đầu thập kỉ thứ 8 của Thế kỉ 20.

Trong mùa bóng tiếp theo, mặc dù gặp phải chấn thương khá nặng, anh vẫn là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho Manchester United với 15 lần đưa bóng vào lưới đối phương sau 32 trận ở tất cả các giải, trong đó có 14 bàn tại GNH, đạt hiệu suất 0.46 bàn/trận) nhưng đây cũng chính là mùa bóng đánh dấu sự sa sút phong độ của Andrei. Anh bắt đầu xuống sức vì quá tải và liên tiếp dính chấn thương! Trong vài vòng đấu cuối cùng, anh bị thoát vị và phải nghỉ thi đấu. Cùng với sự vắng mặt của Eric Cantona (bị kỷ luật 8 tháng sau cú Kungfu kick nổi tiếng vào 1 CĐV của Crystal Pallace), Andrew (ex. Andy) Cole và phần nào là Peter Schmeichel (chấn thương), mùa đó ManU để rơi chức vô địch vào tay Blackburn Rover của cặp Alan Shearer và Chris Sutton - cặp tiền đạo đã ghi hơn 50 bàn trong mùa bóng đó và cá nhân A.S là vua phá lưới, cầu thủ hay nhất giải .... Họ mất luôn cúp FA vào tay Everton - 1 mùa trắng tay của Quỷ Đỏ.


Trong hơn 4 mùa thi đấu dưới màu áo đỏ của Manchester United, Kanchelskis đã thi đấu 145 trận, ghi 48 bàn thắng, đoạt các danh hiệu:

- Siêu cúp châu Âu mùa 91: Thắng đội giữ cúp C1 là Sao Đỏ Belgrade

- Giành League Cup mùa 1991- 1992: thắng Nottingham Forest.

- Vô địch Premier League trong 2 mùa bóng 92-93 và 93-94.

- FA Cup năm 93-94: thắng Chelsea

- Siêu cúp nước Anh mùa 93 (thắng Arsenal) và 94 (thắng Blackburn Rover)

Giai đoạn này, đội hình Quỷ Đỏ toàn những hảo thủ như Lee Sharpe, Bryan Robson, Gary Mc Pallister, Paul Ince, Mark Hughes, Keane, Irwin, King Eric, "The Great Dane" Schmeichel… và lứa "Thế hệ vàng" được đôn lên mà tiêu biểu là Gigg. Trong 1 tập thể toàn sao (Tạm gọi là SAF's Galaxy 1.0) ấy, Kanchelskis lầm lũi toả sáng, chấp nhận làm nền cho các đồng đội bằng những pha khoan phá thần tốc đầy ma quái bên cánh phải và những quả tạt, những đường chuyền hiểm độc. Anh là một nỗi lo sợ cho hàng hậu vệ của các CLB tại Premiership trong nhiều năm liền. Kanchelskis có lối đi bóng hơi giống Giggs và Ronaldo "béo" (nói 2 người này giống anh thì đúng hơn), cầm bóng lao thẳng vào giữa rừng hậu vệ với những cú đảo người ma quái và tốc độ cực nhanh khiến cho các hậu vệ đối phương trở thành những hình nhân trên sân tập cho anh phô diễn tài năng. Dù được mệnh danh là "Học sĩ sân Old Trafford" nhưng anh chơi bóng cực kỳ dũng mãnh và lỳ lợm nhưng rất khôn ngoan. So với anh, cái dũng mãnh của Tevez cũng chưa thể bằng được.

Hơn 4 năm cống hiến không mệt mỏi cho M.U, cầu thủ có dáng chạy mảnh khảnh của một "học sĩ hào hoa" không thể lẫn vào đâu được, cũng để lại những dấu ấn mãi mãi không thể phai nhạt.Trong trận gặp Manchester City ngày 10/11/1994, Kanchelskis làm lu mờ tất cả các đồng đội danh tiếng bằng màn trình diễn không thể tuyệt vời hơn với 3 bàn thắng. Anh trở thành cầu thủ đầu tiên lập hattrick trong trận derby thành Manchester sau 34 năm, kể từ ngày tiền đạo Dowson ghi 3 bàn giúp M.U đánh bại Man City 5-1 ngày 31/12/1960.

Tùng Dương - Redcafe
Đường dẫn đến khung thành

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

Gennaro Gattuso - Tê giác thành Milan

(Đường dẫn đến khung thành) - Mặc dù có hơi muộn nhưng nhắc đến anh thì không bao giờ là trễ cả. Một khuôn mặt hổ báo cáo chồn với những pha tắc bóng khiến mọi đối thủ phải dè chừng, “máy ủi” mẫu mực của thời đại, đó chỉ có thể là anh – Gattuso.


Giã từ sự nghiệp cầu thủ tại FC Sion đó hẳn là một điều khiến “tê giác” cảm thấy tiếc nuối, tuy nhiên nó không quá quan trọng bởi đơn giản với Gattuso, bóng đá không phải là thứ ủy mị, nó phải là sức mạnh và sức mạnh thì không có nước mắt… (tất nhiên là bạn nên trừ ra khoảnh khắc anh khóc khi chia tay Milan bởi đó là ngoại lệ duy nhất -_-).

Đã từng có lúc khi nghe đến bộ tứ Gattuso - Pirlo - Seedorf - Ambrosini, ai nấy cũng phải khiếp sợ bởi sức mạnh của mũi khoan kim cương làm nên tên tuổi cho AC Milan, trong đó Gattuso và Ambrosini đóng vai trò là hòn đá tảng.

18 năm sự nghiệp thi đấu đỉnh cao, là huyền thoại của sân San Siro, là tất cả những tinh túy của lối chơi đặc sản mang phong cách Ý, tuy nhiên khi nhắc tới anh người ta chỉ nhớ đơn giản đó là một gã đồ tể, và không hơn.


Gattuso phải nói là khá may mắn khi được “lên đỉnh” đúng vào thời điểm AC Milan là một tập thể hoàn hảo, các vị trí dường như sinh ra để gắn vào với nhau, và tuy không quá nổi bật nhưng “tê giác” luôn là một vị trí bất khả xâm phạm, có thể nói rằng muốn thắng được Milan thì trước tiên phải bước qua xác của Gattuso cái đã.

Đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của “tê giác” đó có lẽ là chiến thắng của tuyển Ý trước Pháp trong trận chung kết WC 2006, chiến công ấy được nhắc đến với những cái tên như Pirlo, Totti hay Toni nhưng kể cả Pirlo có rực sáng thế nào thì người ta cũng không thể nào không nhắc tới anh – Gattuso. Ở trận đấu ấy, nếu bạn muốn biết tường tận thế nào là một CDM thực thụ thì hãy xem Rino thi đấu.

Có người nói Gattuso làm mất đi cái hào hoa của bóng đá, điều đó không sai nhưng sẽ thật là ngớ ngẩn nếu cho rằng đó là tất cả tinh túy của bóng đá. Thực tế thì một trận bóng là một cuộc chiến và tất nhiên là người ta cần những chiến binh thực thụ.


Bây giờ có thể người ta cần những CDM dùng “cái đầu” như Pirlo nhiều hơn nhưng nói đến cái bản sắc, cái mẫu mực thì chỉ có thể là kiểu của Rino – đầy sức mạnh, đầy nhiệt huyết.


Cuối cùng xin mượn lời của một Tifosi để kết thúc mớ cảm xúc này “Italia vốn nổi tiếng với những cầu thủ tài hoa, những nghệ sĩ thực thụ trên sân cỏ, người ta có thể làm hàng nghìn bài thơ về mái tóc đuôi ngựa của Roberto Baggio, những bước chạy như một vị thần của Paolo Maldini, vẻ đẹp trai của Totti hay đôi mắt u sầu của Andrea Pirlo. Thế nhưng thật khó để làm thơ về Gennaro Gattuso.”

Tùng ARM
Đường dẫn đến khung thành

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

Eusebio, Báo Đen Bồ Đào Nha

(Đường dẫn đến khung thành) - Eusebio da Silva Ferreira, còn được biết đến với biệt danh "Ngọc trai đen" hoặc "Báo đen", sinh năm 1942 tại Lourenco Marques, Mozambique. Thời gian này, Mozambique vẫn còn là một thuộc địa của Bồ Đào Nha.


Năm 1961, ông được HLV của Benfica là Bela Guttmann đưa về Bồ Đào Nha với giá 7500 bảng sau khi đích thân đáp máy bay đến châu Phi để trực tiếp theo dõi Eusebio thi đấu.

Ngay từ những trận đấu đầu tiên thi đấu chính thức trong màu áo Benfica, Eusebio đã liên tiếp gây ấn tượng, trong đó có hattrick vào lưới Santos của vua bóng đá Pele.

Báo Đen tiếp tục gây ấn tượng bằng cú đúp trong chiến thắng 5-3 của Benfica trước Real Madrid ở trận chung kết cup châu Âu năm 1962.

Eusebio thực sự là một cầu thủ tấn công hoàn hảo: Nhanh nhẹn, khéo léo, mạnh mẽ và có khả năng tác chiến độc lập. Ông không cần phải quá phụ thuộc vào những đường chuyền của tuyến tiền vệ để tỏa sáng. Nhờ đó, Eusebia đã ghi đến 319 bàn thắng trong số 313 trận thi đấu tại giải VĐQG Bồ Đào Nha, đưa Benfica đến 10 danh hiệu VĐQG, 5 cup Quốc gia, 1 cup châu Âu (1962) và một lần vào chung kết cup châu Âu (1968, thất bại trước Manchester United ở sân Wembley). Bản thân ông cũng đã có 6 lần nhận danh hiệu Vua phá lưới giải VĐQG Bồ Đào Nha, 2 lần nhận danh hiệu Vua phá lưới cup châu Âu (1968, 1973) và một lần được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu (1965).


Vào năm 1966, Bồ Đào Nha lần đầu tiên lọt vào vòng chung kết World Cup. Và Eusebio đã làm rung chuyển thế giới với 9 bàn thắng để trở thành vua phá lưới của giải đấu. Ở vòng bảng, ông đã giúp Bồ Đào Nha hai lần xé toang mành lưới của đội bóng đương kim vô địch 2 mua World Cup liên tiếp (1958 và 1962). Trong trận tứ kết, khi Bồ Đào Nha đang bị Bắc Triều Tiên dẫn 3-0, một mình ông ghi liên tiếp 4 bàn thắng để giúp đội nhà lội ngược dòng thành công với chiến thắng 5-3. Người Bồ đã thua Anh ở bán kết, nhưng đã giành chiến thắng trước Liên Xô trong trận tranh hạng 3 để khép lại một giải đấu đáng nhớ nhất lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha.


Tuy nhiên, thật không may, Eusebio đã không bao giờ được tham dự một vòng chung kết World Cup nào nữa dù đã tham gia chiến dịch vòng loại World Cup 1970 và 1974. Sau đó, giống như hầu hết các ngôi sao thời đại đó, ông sang Mỹ thi đấu trước khi treo giày vào năm 1978.

Eusebio đã phải nhập viện nhiều lần trong suốt năm qua để điều trị các vấn đề về tim và hô hấp. ngày 5/1/2014, ông qua đời, hưởng thọ 72 tuổi.


Khi ông mất, huyền thoại chạy cánh của Bồ Đào Nha, Luis Figo nói: "Một mất mát lớn đối với tất cả chúng ta!"

HLV của Chelsea, Jose Mourinho viết: "Tôi nghĩ, ông ấy sẽ bất tử trong lòng người hâm mộ. Tất cả mọi người đều biết những gì ông ấy đã cống hiến cho bóng đá nói chung, và bóng đá Bồ Đào Nha nói riêng.
Ông ấy không chỉ tạo ra nguồn cảm hứng tuyệt vời, mà còn là một nhân vật đặc biệt quan trọng trong việc gìn giữ những giá trị, nguyên tắc, và đam mê trong bóng đá, ngay cả khi đã giã từ sự nghiệp"


Chủ tịch hiệu hội bóng đá Anh, Greg Dyke cho biết: "Ông ấy là cả Messi lẫn Ronaldo của những năm 60-70 thế kỷ trước.
Mỗi thế hệ đều có những cầu thủ tuyệt vời. Ông rõ ràng là một trong số rất ít những cầu thủ hàng đầu thế giới, với những phẩm chất thiên bẩm có một không hai"

Trúc Phong
Đường dẫn đến khung thành

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More